Chương này vừa bàn về đại vận vừa nhắc về lưu niên thái tuế. Vì sao phải bàn chung hai vấn đề đó? Vì sau khi xác định được nhật can của tứ trụ là mạnh hay yếu và định được dụng thần thì phải tổng hợp sở hữu đại vận và lưu niên thành nhân tiện để dự đoán sự việc.
các sách về mệnh lý học đã xuất bản, đều né tránh vấn đề khiến cho sao từ đại vận lưu niên để đoán ra các cát hung họa phúc của cả thế cuộc. Cho dù đôi cuốn sở hữu bàn tới thì cũng chỉ dưới góc độ kết hợp sự bổ ích hay làm hao tốn của những cách cực trong Tứ trụ để bàn tới phương pháp cục. Phương pháp bàn về những cách cục này không những không đáng hấp thu mà còn khiến cho rắc rối phức tạp thêm đối có những người mới học, hơn nữa trong dự báo cũng không tìm ra được mối lái để phân biệt cát hung. Đối có người cần đoán mà kể họ chỉ mong biết được là sự việc cát hay hung, vì vậy nếu kể một cách hồ đồ hoặc chung chung thì không thể đạt được mục đích dự đoán. Vì vậy muốn từ đại vận lưu niên đoán ra được cát hung thì điều cơ bản nhất là phải biết bắt đầu từ đầu, hay nói cách thức khác điều muốn làm minh bạch là mỗi đại vận quản năm năm nay là quản mười năm.
nói chung những sách đều giống nhau ở chỗ cứ mỗi đại vận mười năm đều lấy lệnh tháng làm cho chuẩn, nam nữ tính thuận hay tính ngược để xác định. Điều đó thích hợp sở hữu nguyên lý âm dương. Song cứ phân mỗi vận thành mười năm bản chất với hợp tình, hợp lý hợp thực tế không?
Luận thuyết về phân tách các can chi của đại vận
Trong luận thuyết về phân tích các can chi của đại vận sở hữu cách phân: thiên can quản năm năm đầu, liên hệ quản năm năm sau. Trong ấy khi bàn về thiên can, địa chỉ phải chiếm 3 phần, lúc bàn về địa chỉ, thiên can cũng chiếm 3 phần. Lại có phương pháp phân: với trọng chi, ko với trọng can, thiên can quản bốn năm, liên hệ quản sáu năm. Còn với cách thức phân nữa là: thiên can quản ba năm, địa chi quản bảy năm. Những phương pháp chia này đều kể lúc bàn đến cần phải chú ý đến chi, lúc bạn tới chi phải chú ý tới can, tuyệt đối ko được bàn riêng. Điều đấy chứng tỏ cán chi không thể phân khai, nhưng thực tiễn lại là phân chia tách bạch. Đã dành can chẳng thể rời chị hay trái lại chị không thể rời can, điều đó giống như cán cân mang quả cân không thể rời nhau hay giống như vợ chẳng thể lìa chồng vậy.
Hành đại vận là bắt đầu từ lệnh tháng, giả dụ tính thuận thì tính tới nguyệt khí của tháng sau, giả dụ tính ngược thì tính tới lệnh tháng của tháng trước. Phàm là can chi của lệnh tháng đều quản chung sự việc của 1 tháng, ko mang can quản nửa tháng, chi quản nửa tháng. Đại vận đương nhiên là tham chính chung với Tứ trụ nên không với chuyện phân chia can hoặc chi của đại vận quản mấy năm.
Thiên can trong mệnh cục Tứ trụ là thiên tượng, là chủ tượng. Thành ra thiên can là thiên nguyên còn địa chi là địa tượng, là tượng bổ trợ nên gọi là địa nguyên. Giữa chúng là mối quan hệ thiên địa, âm dương, quân thần, phu thê. Đại cục do thiên định, hợp tình hợp lý là vì dựa vào một đạo lý chung mà mọi người đều biết, đấy là: thấu lộ thì rõ, tàng thì ẩn nên gọi là minh hiển hay ám tàng. Thiên can thấu ra thì việc thấu lộ rất rõ, trước nhất sẽ bị khắc hoặc được sinh trợ, sự xung đột lợi hại tự dưng đấy cũng rất rõ ràng, dễ thấy, còn các can tàng trong địa chi thì khó nhìn rõ hơn. Trong thực tế dự đoán, ví như là người tài vượng và lộ rõ thì một mực khảng khái, đại phóng, nhưng nếu kị tỉ kiếp mà gặp phải thì trước nhất sẽ bị chiếm đoạt. Người tài tàng mà có tuyển mộ kho là càng giàu thì càng biển lận, nhỏ mọn. Nếu vừa với can tàng, can lộ thì người ấy vừa có thể tích luỹ lại vừa ko bị mất đi sự đại phóng. Có người địa chi tàng sát, thiên can thấu ấn là người mang khuân mặt nhân từ, nhưng thực ra tâm dạ ác nghiệp. Phải phối hợp thiên can của đại vận và lưu niên với thiên can của Tứ trụ để xét về quan hệ sinh khắc chế hóa thì trong khoảng trong sự việc cần đoán mới có thể đoán ra thời kỳ phát sinh. Địa chi của đại vận kết hợp với địa chi của Tứ trụ để bổ trợ cho sự suy đoán, mang tác dụng thấy được sự cát hung tăng hay giảm.
1 vận mười năm bao hàm sự lưu chuyển mười năm của mười thiên can, thiên can của đại vận gặp vận phải chăng nhưng lưu niên thì chẳng hề trong mười năm năm nào cũng phải chăng như nhau. Các năm phải chăng nhất là mấy năm dụng thần đắc lực, trong những lưu niên này còn vì các tổ hợp hình xung khắc hợp phải chăng hay xấu mà tránh tác dụng của dụng thần. Trong các năm dụng thần bị khắc, bị hao tốn thì sẽ gặp 1 số ko thuận, cũng với thể vì tổ hợp hình xung khắc hợp mà khiến cho tổn hại tới dụng thần, song khi thiên can đại vận là vận phải chăng thì những điều không thuận chỉ là nhất thời. Ví như thiên can đại vận không thấp thì hoàn toàn ngược lại.
Thiên can trong mệnh cục Tứ trụ là thiên tượng, là chủ tượng
Can Chi của đại vận có mối liên hệ thế nào?
Giữa can chi của đại vận mang 1 địa chỉ lẫn nhau, ngũ hành của can chi tương sinh, tương khắc hay tương đồng đều làm nâng cao hay giảm sự rẻ xấu của đại vận. Ví như can trên khắc chi dưới thì khí của con trên bị tổn hao; can trên sinh chi dưới thì khí của con trên bị xì khá, chi dưới khắc can trên sẽ áp chế khí của can trên, chi dưới sinh cho can trên, hoặc cộng dòng mang con trên là sinh phù cho khí can trên. Không những thế đại vận và lưu niên giống như trụ thứ năm và trụ thứ sáu, chẳng những chúng tham dự vào sự cân bằng tổng hợp của Tứ trụ mà còn trực tiếp chia mười năm thành một thời kỳ, lưu niên là một thái tuế để diễn tả sự cát hung. Thiên can của đại vận đang ở vận rẻ, ngũ hành địa chi của đại vận nếu sinh phù cho thiên can thì hữu ích cho dụng thần, ví như khắc, hao, tốn thiên can thì tổn hại cho dụng thần. Độc giả nên tham khảo sự hình, xung, khắc hợp của địa chỉ trong Tứ trụ đối mang mười năm của đại vận có tác dụng tăng hay giảm cát hung để biết.
Lưu niên ngoài bản thân sự sinh khắc của những can chi phía trên hay phía dưới để có ích hay khiến cho tổn hại dụng thần ra, thiên can của lưu niên cũng nằm trong phạm trù hoặc sẽ với tác dụng rẻ hay với tác dụng xấu đối mang đại vận mười năm. Về điều này nên tham khảo mục sinh, khắc, chế, hóa của đại vận và Tứ trụ. Địa chi của lưu niên có sự hình, xung, khắc hợp mang đại vận và Tứ trụ, còn thiên can của lưu niên thì với tác dụng làm phải chăng hay xấu cho năm ấy.
tỉ dụ lấy vận tốt mà kể, ví như theo cách thức cho rằng con chi phân nhau quản những năm, khi thiên can hành tài vận thì nên là phát tài, nhưng thiên can của lưu niên lại ko lợi cho dụng thân thì năm ấy sẽ ko với của, tức là ko có tài để mà phát; mấy năm sau của đại vận, giả dụ theo bí quyết nhắc những chị quản những năm sau thì ấy ko phải là năm tài, nhưng nhờ thiên can của lưu niên mà sinh tài, vượng tài thì tài vẫn phát to. Điều ấy là hiện tượng phổ quát trong thực tại dự đoán. Vì vậy có sự tranh luận: gặp đại vận phải chăng ko bằng gặp lưu niên phải chăng, hoặc lưu niên rẻ ko bằng đại vận phải chăng. Ấy là vì sự mâu thuẫn do ý kiến ko hợp lý cho rằng thiên can và địa chi của đại vận chi quản mười năm. Thành ra bí quyết đề cập, đại vận quyết định sự tốt hay xấu của 10 năm, còn lưu niên xác định cát, hoặc hung của vận ấy là hợp lý.
Ngũ hành của can chi tương sinh, tương khắc hay tương đồng đều khiến cho nâng cao hay giảm sự tốt xấu của đại vận
Thế nào gọi là vận tốt?
Trong cả thế cục người ta, thời gian thấp nhất là lúc dụng thần lên ngôi, đó gọi là đang hành vận tốt. Trong mệnh cục ví như mang dụng thần, thì gọi là dụng thần nguyên cục, mỗi lần dụng thần được sinh là mỗi lần tăng thêm có ích, giả dụ mệnh vẫn không mang dụng thần thì thế cuộc gập ghềnh ko tiện dụng. Nguyên cục ko với dụng thần thì chỉ còn kỳ vọng hành tới vận gặp được dụng thần đang thiếu. Cho dù là mệnh phải chăng hay mệnh xấu (tức là tổ hợp của mệnh ko tốt) thì lúc hành tới vận gặp được dụng thần nhất mực sẽ là quá trình dễ dàng nhất trong thế cuộc, đối có mệnh cục thấp mà nhắc thì đó là thời kỳ huy hoàng nhất.
Hành đến vận gặp được dụng thần tổng thể muốn kể đó là thời kì sở hữu lực nhất, cũng tức là khoảng mười tới 2 mươi năm. Tỉ dụ nhắc nếu như hành quan vận thì quá trình quan vận sẽ đạt được chức tước cao nhất. Sau ấy sát vận cũng là quan vận, dụng thần là chính quan, ví như là thiên quan thì cũng không hề là điều kị, vì vận thiện quan cũng có thể thăng quan tiến chức. Hành đến tài vận cũng sẽ được thăng quan vì chính tài sinh chính quan, thiên tài sinh thiên quan, chính sinh thiên hoặc thiên sinh chính đều ko bằng chính sinh chính hoặc thiên sinh thiên. Tài vận được xem là dụng thần thứ hai, tuy còn mang cơ hội thăng quan, nhưng vẫn khí phải kém hơn dụng thần của chính vận đó.
Sau lúc đã xác định được thân vượng hay thân nhược thì dụng thần đã rõ. Mệnh cục của Tứ trụ chỉ cung cấp các điều kiện cơ bản về sự cát hung, tốt xấu của đại vận và lưu niên, còn như trong cả thế cuộc, khi nào là vận phải chăng, lúc nào là vận rẻ vừa, lúc nào là bại vận, khi nào là đại bại vận thì phải tính từ lúc dụng thần hành đến vận nào. Lưu niên chỉ là kể rõ thêm một bước trong vận tốt hay vận xấu, sẽ phải chăng ở năm nào, hoặc sẽ xấu ở năm nào (người thành thực điêu luyện thậm chí sở hữu thể tính được phải chăng hay xấu rơi vào tháng ngày nào. Nguyên lý của nó vẫn là căn cứ vào sự sinh khắc giữa dụng thần và ngũ hành).
Phàm người thân vượng, dưới tiền đề trong mệnh cục không bị hình xung khắc hợp khiến cho hại, hơn nữa ngũ hành thiên khô (thiên khô tức thị những tổ hợp trong Tứ trụ xấu phổ biến hơn tốt), tổ hợp không thích hợp thì chế vận là: quan vận, sát vận, hao vận; chính tài vận, hào kiệt vận; xì tương đối vận: thượng quan vận, thực thần vận đều được xem là những vận rẻ. Những vận: chính ấn, thiên ấn sinh thân; các vận: ngang vai, kiếp tài giúp trợ thân, đều được xem là bại vận. Trong đó vận khắc dụng thần là hung vận.
Phàm người thân nhược, cũng dưới tiền đề như trên, khi hành đến những vận: chính ấn, thiên ấn sinh thân, các vận: ngang vai, kiếp tài giúp trợ thân đều được xem là vận phải chăng. Khi hành tới quan vận, sát vận khắc mình, hoặc những vận thương quan, thực thần làm cho xì khá mình, hoặc những vận chính tài, anh tài làm cho tổn hao mình thì đều được xem là bại vận hoặc hung vận.
Hành đến vận gặp được dụng thần đại quát muốn nhắc đấy là thời gian sở hữu lực nhất, cũng tức là khoảng mười đến 2 mươi năm
Sự phải chăng hay xấu của vận khí thế cuộc con người
Thế nào gọi là thấp, thế nào gọi là bại? Sự phải chăng hay xấu của vận khí thế cục con người chỉ mang thể so sánh mang bản thân mình. Phương ngôn nói: "Người so sở hữu người, tức chết đi được". Sự rẻ xấu của mệnh cục mỗi người sẽ quyết định sự rẻ xấu của vận khí. Mệnh khác nhau thì vận cũng khác nhau, cho trên mỗi người khác nhau ắt phải trải qua những cuộc sống khác nhau. Vậy là sánh như thế nào? Bí quyết so sánh trực tiếp nhất và rõ nhất là từ thân vượng hay thân nhược, hành vận bị áp chế hay được phù trì để mang thể thấy rõ. Ví như lấy thực tiễn con đường cuộc sống để so sánh thì rất phức tạp vì ở đây vận mệnh của mỗi người còn gắn mang vận qua đời của quốc gia, của khu vực. Quốc vận ngày nay đang bằng phẳng, phố hội tiến bộ, con người với cuộc sống tiên tiến, tuy trong quốc gia còn có các khu vực nghèo túng, lạc hậu, nhưng phổ biến đều với ti vi điều kiện cuộc sống đã được tăng. Chúng ta chẳng thể so sánh vận mệnh quốc gia mang vận mệnh kinh tế của con người, mà chỉ nên lấy người ấy hành tới vận thấp sớm hay muộn để so sánh, trong ấy điều kiện then chốt nhất lại không thể tách rời sở hữu vận mệnh của quốc gia.
với người hành vận thấp được sớm, với một mệnh cục rất tích cực, giả dụ trong điều kiện dễ làm cho giàu như hiện nay thì đáng lẽ đã phát triển thành người giàu, nhưng khi đất nước có sự nao núng, với các phong trào do con người tạo nên làm cho mọi người không thể giấu được thì dù người đó hành đến tài vận nhưng cũng chỉ cơm no, áo ấm hơn người khác một tẹo mà thôi, hoặc chỉ nâng cao thêm được 1 bậc lương nào ấy. Nếu trước kia đã trải qua vận không phải chăng, nhưng chỉ cần mang một Tứ trụ rẻ, hiện giờ hành đến tài vận lại gặp được quốc vận đang đổi mới thì người ấy sẽ tiện lợi. Giả dụ quốc vận ngày một tốt, mà Tứ trụ và những điều kiện khác của hai người khác nhau thì trong đó cuộc sống của người có mệnh cục thấp nhất mực sẽ tốt hơn. Tự mình khó so sánh sở hữu mình, nhưng giả dụ ta chú ý tới sự khẳng định của phố hội thừa nhận địa vị của người đó để so sánh mức độ cống hiến của người ấy cho phố hội thì tức thị ta đã gắn việc Nhận định với mệnh cục 1 phương pháp rõ ràng hơn.
tỉ dụ người làm thương mại, sở hữu quy mô lớn, trị giá kinh doanh lớn thì thị trấn hội thừa nhận đó là người no ấm, người có năng lực chính trị cao thì phố hội thừa nhận địa vị lãnh đạo của người đó, người có tri thức thông thái và chuyển hóa nó thành của cải cho thị trấn hội, đem lại lợi ích cho quần chúng. # Thì phố hội thừa nhận địa vị và công danh của người ấy càng cao, càng rộng rãi. Người mà ngũ hành trong mệnh cục có tình, dụng thần sở hữu lực, lại gặp vận rẻ thì tổng thể phú quý, công danh, quyền ấn đều mang. Song thông thường số người đấy chỉ đếm trên đầu ngón tay. Vì trong 1 vòng sáu mươi giáp tí có tới hơn 52 vạn tổ hợp Tứ trụ khác nhau, tuy nhiên tướng tay, tướng mặt, cốt tướng của mỗi người còn khác nhau, rồi cùng thêm đến di truyền, khu vực sống còn chênh lệch nhau nữa. Vì vậy tuy mệnh cục đều lấy tài làm dụng thần nhưng rất ít người ấm no, còn rất nhiều chỉ là người sở hữu ăn hơn so sở hữu người dân thông thường. Còn 1 vấn đề nữa, tuy cộng với dụng thần là tài nhưng người đấy mang đạt được mệnh cục như thế hay ko là còn tùy thuộc vào sự quyết tâm trong cuộc sống của họ. \
ví dụ có người có thể phát tài ở phương Nam, đến sống ở phương Nam thì sung túc rất nhanh, bản thân trở thành chủ toạ Hội đồng quản trị của công ty hay Xí nghiệp, mức sống rất cao so mang những người bản địa. Song ý kiến ấm no ở mỗi vùng 1 khác. Tỉ dụ ở đây người mang 1 vạn được xem là phát tài, nhưng đến vùng khác của phương Nam một trăm vạn mới được xem là giàu, thậm chí như ở Ôxtrâylia phải sở hữu tiền triệu mới xem là giàu có. Trị giá áp dụng của mệnh học là ở đây. Tới được vùng mang lợi cho dụng thần hoặc sinh trợ cho dụng thần thì mới phát tài và phát tài rất nhanh, đường công danh cũng mới bằng phẳng. Cho dù vận mệnh ko phải chăng lắm, dụng thần ko đắc lực nhưng đến được phương vị hợp có dụng thần thì cuộc sống cũng sẽ tiện dụng hơn. Chúng ta từng thấy sở hữu một số người ăn xin, thậm chí ở những thành thị trù mật vùng duyên hải phương Nam số người hành khất cũng sở hữu nhiều nhưng họ ko bị chết rét. Tuy là ăn xin nhưng chẳng phải số đông mọi người ăn xin đều tới được vùng phía Nam.
Sự phải chăng xấu của mệnh cục mỗi người sẽ quyết định sự rẻ xấu của vận khí. Mệnh khác nhau thì vận cũng khác nhau
những người mệnh lợi ở phương Nam mà không tới phương Nam được, cố nhiên phải chịu đói rét. Vì vậy đi sai phương vị, nghĩa là đi ko đúng có phương với lợi cho dụng thần tất sẽ rủi ro, cho dù gặp vận phải chăng cũng không bằng là nên đi về phương vị mà trong vận, trong mệnh nên đi. Ấy là chưa đề cập đến khi hành bại vẫn còn thảm thương hơn, hoạ vô đơn chí. Trái lại có các người mù quáng đi về phương Nam là phương ko đáng đi thì không những không khó khăn nối có người bản địa mà thậm chí còn bị cuộc sống đắt đỏ, hoặc rơi vào cảnh bị ăn cướp, vỡ nợ.
Trong cuộc thế một người nói chung đều gặp vận khí rẻ hay xấu chỉ mang điều gặp phổ quát hay ít, gặp sớm hay gặp muộn mà thôi. Đại quát tuổi trẻ hay tuổi già mang thể hành vận xấu, nhưng cũng có khi không gặp phải vận xấu nhất. Theo quy luật bất chợt mà nói, hiện giờ số người thọ 80 tuổi ko còn là cổ lai hy. Đối sở hữu những người từ tuổi nhỏ cuộc sống nghèo khổ hơn, tới tuổi luống tuổi do học hành mà thành đạt, tới tuổi già thừa hưởng cuộc sống bình thường, như thế là tốt. Người mà mấy chục năm của quãng giữa cuộc thế gặp vận trình rẻ là người sở hữu phúc, đến lúc tuổi già do bệnh già mà chết thì ấy là người ko gọi là phải chăng cũng đã rất thiên nhiên. Chỉ sợ rằng trong khoảng tuổi nhỏ đã hành vận tốt, hưởng hết phúc tới cuối đời cuộc sống mới thê lương. Thậm chí với các ngườichưa gặp được vận rẻ đã gặp phải những vận khắc hại dụng thần làm cho đoản thọ hoặc vì nghèo khổ quá mà chết non. Các người mà ngũ hành trong Tứ trụ khá cân bằng thì đề cập rút cuộc đời ít mang thay đổi. Người mà Tứ trụ những đại vận đổi thay phổ quát thì phải đưa vào vận khí. Ví như vận khí trợ giúp được phổ thông thì cuộc sống dễ dàng hơn, vận khí viện trợ ít thì suốt đời trầm lắng.
Dụng thần vì sự thay đổi của đại vận và lưu niên nên mang lúc mạnh lúc yếu, thế cuộc cũng theo đấy mà lúc phải chăng khi xấu
thí dụ người trong mệnh cục mang dụng thần là hoả, khi gặp thiên can của đại vận là bính định tức thị gặp vận rẻ, giáp ất sinh bình định nên vận giáp ất cũng là vận thấp. Nhưng vấn giáp ất chẳng hề là vận của dụng thần do đó các tổ hợp của can chi có Tứ trụ cũng sẽ kém hơn lúc đang hành ứng dụng thần. Mệnh cục mang dụng thần, mà mang giáp ất là vận tốt; ko sở hữu dụng thần thì giáp ất chỉ mang thể bổ trợ cho dụng thần chứ chẳng thể thay thế được dụng thần bính định: Điều cần nói rõ ở đây là: giả dụ giáp ất là thương quan, khi thương quan trong mệnh vượng quá thì đó là vận ở dưới mức thường nhật vì thương quan gặp năm quan hạn sẽ lớn. Nếu giáp ất bình định là vận rẻ sinh phù thì mậu kì canh tân nhâm quý đều là những vận giúp đỡ kị thần, hoặc là đương vận kị thần. Do tổ hợp của mỗi vận khác nhau, nên mức độ cát hung của sự việc cũng khác nhau, điều đó thông qua sự sinh khắc, hình xung hội hợp có hỉ thần và kị thần để diễn tả ra, sở hữu thể tính toán được. Hơn nữa, những việc thấp xấu của kí vãng và ngày mai đều có thể căn cứ vào các tổ hợp đấy để đoán ra.
Trong thực tiễn cho dù là cân bằng cho Tứ trụ hoặc dự đoán cho từng vận, từng năm đều phải luôn luôn nhớ rõ: thân vượng thì nên gặp vận hoặc năm là xì khá, tổn hao, áp chế là tốt; thân nhược thì nên được năm hoặc vận tương sinh hay trợ phù là tốt. Mang 1 số mệnh học đưa ra lý thuyết cho rằng: tuổi già sợ gặp vận tượng, tuổi xanh sợ gặp vận suy, tuổi trung niên sợ gặp những địa chi rơi vào tử, tuyệt, thai. Cách thức nhắc đấy là căn cứ vào quy luật sinh trưởng ngẫu nhiên của con người mà nói. Nhưng vận trình của con người là căn cứ vào thiên can, dụng thần và những tổ hợp sở hữu địa chi để xác định vận rẻ hay xấu. Tuổi già, tuổi trẻ và luống tuổi, dụng thần tuyến phố vận cơ bản không mang gì can dự mang vận vượng hay vận suy, vì thế đa dạng bạn đọc mới học đã không nắm vững điều ấy nên bị lý luận trên làm cho hoang với về nhận thức. Ấy là điều nên kiện quyết dứt bỏ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét